GIỚI THIỆU

Kinh Dương Vương

Email In PDF.

Kinh Dương Vương

 

Sử Việt có tục truyền rằng:

Vua Đế Minh cháu Thần Nông ba đời

Nhân đi tuần thú Nam trời

Đến núi Ngũ Lĩnh, dưới trời Hồ Nam

 

Gặp tiên, vua ấy lấy nàng

 Sau sinh được một thanh nam, đặt là:

Lộc Tục, sử có lược qua.

Đế Minh rồi lúc đã già yếu đi

 

Cho con kế nghiệp trị vì

Bắc Phương là có Đế Nghi,  vua này

Nam phương thì nhớ rằng ngay

Lộc Tục lên trị rồi ngài tự xưng

 

Kinh Dương Vương  tiếng lẫy lừng

Nam phương quốc, thuở  xưa từng gọi tên

Xích Quỷ - xin nhớ đừng quên !

Nước Xích Quỷ giáp bốn bên như vầy:

 

Ba Thục ranh giới phía tây

Phía nam giáp với nước này: Hồ Tôn

Phía bắc giáp Động Đình Hồ

Đông giáp Nam Hải, cõi bờ khi xưa!

 

 

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Email In PDF.
Lạc Long Quân và Âu Cơ

 

Kinh Dương Vương thuở làm vua

Quãng năm Nhâm Tuất lúc vừa bước sang.

Ngài cưới con Động Đình Quân.

Bà là Long Nữ, sử rằng sinh ra.

 

 

 

Con tên Sùng Lãm, nhớ là

Sùng Lãm, sau lại thay cha trị vì

Kinh Dương Vương lúc mất đi

Lên ngai, Sùng Lãm tức thì tự xưng.

 

 

 

Hiệu rằng, thưa Lạc Long Quân

Lạc ông tài giỏi siêu quần nước ta

Vợ ông sử lược chính bà

Âu Cơ hay cũng gọi là Nguyệt Tiên.

 

 

 

Cha Âu Cơ sử có truyền

Là Đế Lai, vua láng giềng với ta.

Từ đây lịch sử nước nhà

Có Rồng Tiên chuyện,  thể qua tục truyền.

 

 

 

Âu Cơ rằng dõi  nhà Tiên.

Sinh ra bọc trứng nở liền trăm con.

Đến khi con cái lớn khôn.

Long Quân nói rõ gốc nguồn tổ tông

 

 

 

“Do ta gốc ở nhà Rồng.

Ngặt vì nàng lại thuộc dòng nhà Tiên

Với nhau, ở phải điều kiêng.

Chia con, ta rẽ hai miền sẽ hơn.

 

 

 

Năm mươi theo nàng lên non.

Năm mươi xuống bể ngược đường cùng ta”.

Âu Cơ thuận ý, thế là

Năm mươi theo mẹ, nửa  đà theo cha

 

 

 

Nước Xích Quỷ sau tách ra

Trở  thành Bách Việt, nhưng mà nói ngay

Khó lòng xác quyết chuyện này.

Dù bên Tàu, đến ngày nay, các vùng :

 

 

 

Đất ở Hồ Quảng còn xưng

Đất của Bách Việt, như vùng Quảng Tây.

Quảng Đông,  Hồ Nam ngày nay.

Họ xưng vậy. Nhưng chuyện này nhắc thôi !
 

Hùng Vương Dựng Nước

Email In PDF.

               

           Hùng Vương Dựng Nước

 

            Từ đây sử Việt lên ngôi.

Hùng Vương dựng nước đến hồi khai hoa.

Vua Hùng Thứ Nhất nước ta

Trăm con Âu Lạc,  ông là trưởng nam.

 

 Tài năng hiệt kiệt, siêu quần.

Ông được cha Lạc Long Quân phong là

Vua Văn Lang, nước Việt ta

Vua Hùng, sau chọn đô là Phong Châu.

 

 Nước Văn Lang thuở ban đầu

Có thảy mười lăm bộ như sau, nối liền:

Văn Lang, Phúc Lộc, Chu Diên

Vũ Ninh, Vũ Định, Dương Tuyền, Tân Hưng

 

 Hoài Hoan, Giao Chỉ, Cửu Chân

Cửu Đức, Ninh Hải, Bình Văn, Việt Thường.

Lục Hải bộ cuối là tường!

Nước Văn Lang  thuở Hùng Vương, nhớ là

 

 Xưa, ở miền  Bắc nước ta.

Giáp Tàu, có Bộ tên là Bình Văn.

Bình Văn bộ ấy phải rằng ?

Nay thuộc Trung Quốc, đất  phần Hồ Nam.

 

 Trong triều đất nước Văn Lang

Vua chia văn võ xếp hàng hai bên

Tướng Văn thuở ấy có tên:

Lạc Hầu xếp đứng một bên để chầu

 

 Tướng võ có tên gọi sau:

Nhớ rằng Lạc Tướng, đối chầu một bên.

Quan nhỏ thuở ấy, có tên

Là Bồ Chính. Con vua tên gọi này:

 

 Quan Lang dùng chỉ con trai.

Mị Nương chỉ gái, thuở này nước ta

Riêng về chính trị, nước nhà

Cứ theo phụ đạo, con –cha, nối - truyền.

 

 Văn Lang đất nước Rồng Tiên

Các vua Hùng trị nước, truyền ngôi nhau.

Mười tám triều kể từ đầu.

Đến năm Quý Mão coi như sau cùng.

 

 Hồng Bàng họ ấy gom chung.

Kinh Dương Vương, hết triều Hùng, tính ra.

Hai chục triều vua trôi qua.

 Khởi Nhâm Tuất, Quý Mão đà dứt đi. (2879-258 TCN)

 

Thời này lịch sử còn ghi

Một vài truyện tích, giờ thì điểm qua.

Chuyện đầu lịch sử ghi là

Hùng Vương Thứ Nhất, dân ta lưới chày.

 

 Bị Thuồng Luồng hại đêm ngày

Vua Hùng khi đó bắt ngay dân mình.

Dùng chàm vẽ khắp thân mình

Để Thuồng Luồng, Thủy Quái  đinh ninh là

 

Đồng loại chúng giống như ta.

Chúng không hại nữa, thế là từ đây.

Dân ta theo mãi tục này

Rồi truyền cho đến nửa ngay nhà Trần

 

 Anh Tông thấy tục không cần

Cho nên tục ấy sau dần bỏ qua

Ngoài chuyện này, có chuyện là

Ghe, xuồng thêm mắt, quỷ ma không gần!

 

Thiên Vương Phù Đổng

Chuyện đây can đến giặc Ân

Thiên Vương Phù Đổng, nhiều lần nghe qua!

Hùng Vương Thứ Sáu nước ta.

Giặc Ân xâm phạm nước nhà Văn Lang.

 

 Thế giặc mạnh lại hung tàn.

Quân ta thua trận, nước càng nguy vong.

Vua bảo sứ giả hết lòng.

Tìm người tài giỏi lập công giết thù.

 

 Một hôm sứ giả về tâu.

Gặp một đứa bé yêu cầu như sau :

‘‘Ngựa, roi, giáp sắt rèn mau.

Đem về Phù Đổng thế nào cũng xong !’’

 

 Vua thấy lạ nhưng bằng lòng

Truyền quân rèn gấp, đoạn xong cấp kì.

Đứa bé nhìn thấy một khi.

Vươn vai một cái tức thì lớn cao

 

 Lên ngựa phi tựa tên lao

Miệng hô rền sấm, khí cao ngút trời.

Gióng nhằm giặc đánh  tả tơi.

Giặc Ân hô hoán tướng trời xuất quân.

 

 Ba đầu bốn cổ sáu chân.

Hồn kinh vía khiếp tính thần lạc bay.

Roi sắt gãy, Gióng thuận tay

Bụi tre nhổ phắt, đất bay tối trời.

 

 Ngựa phi tới xác giặc phơi

Đến Sóc Sơn, Gióng nhằm trời bay đi

Vua Hùng công nhớ ơn ghi.

Lập đền Phù Đổng, an-kì cho dân.

 

 Sau này, Lý Thái Tổ phong

Thiên Vương Phù Đổng, nhắc lòng đâu dư.

Ai ơi mồng chín tháng tư.

Không đi hội Gióng cũng hư cả đời.

 

                                                         Sơn tinh thủy tinh

Chuyện đây xin được tiếp lời

Kể rằng Sơn-Thủy, muôn đời kình nhau.

Gốc nguồn sự việc như sau

Ở  miền Bắc Việt, lũ trào mỗi năm

 

 Người xưa tưởng tượng ra rằng

Sơn, Thủy đại chiến mỗi năm một lần !

Đời Hùng mười tám. Chuyện rằng :

Vua có con gái tuyệt trần Mị Nương.

 

 Vua cha rất mực yêu thương.

Ngài tìm rể quý liệu đường cho con.

Một hôm, hai gã cầu hôn.

Kẻ thì dưới biển, trên non một người.

 

 Tài năng họ động đất trời.

Vua phân vân phán đôi lời ước sau:

"Mai ai đến trước rước dâu.

Riêng về sính lễ, yêu cầu như sau:

Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao...

 Cả hai nghe rõ, dập đầu tạ ơn.

 

 Hôm sau mới sáng tinh mơ.

Sơn Tinh mang lễ, đứng chờ báo tin

Vua thuận, rước dâu linh đình.

Thuỷ Tinh đến muộn kêu binh làm càn. 

 

 Hô mưa dâng nước biển tràn

Sơn Tinh ứng đánh liên hoàn trước sau

Nước dâng núi lại thêm cao

Hai bên trên dưới đánh nhau liên hồi

 

 Đến khi tàn sức kiệt hơi

Thủy Tinh lại rút, năm trời lại lên

Bỉ nhân  gác truyện sang bên

Các chuyện sai đúng hãy nên dặn lòng !

 

 Riêng về câu chuyện Tiên Rồng

Cùng  mong dân Việt giống dòng vẻ vang !

 

 

 

Vài Nét Về Sử Việt Thủy Nguyên

Email In PDF.
            
         Vài Nét Về Sử Việt Thủy Nguyên

 

Bỉ nhân xin điểm  ít hàng.

Nhớ lại  Sử Việt, thời gian có, là:

 

Từ cuối thế kỷ mười ba.

Đời Trần lúc đó vua là Thánh Tông

Dưới có học sĩ hàn lâm.

Họ Lê tên gọi không lầm Văn Hưu.

 

Soạn Quốc Sử, tựa bốn từ :

Đại- Việt- Sử- Ký, kể như bộ đầu.

Ông giới hạn lại như sau :

Ngang Triệu Vương Vũ, sau Lý Chiêu Hoàng

 

Sau Lễ Bộ Tả Thị Lang

Ngô Sĩ Liên, ông viết sang phần đầu.

Tức  hai trăm rưỡi năm sau

Thế kỷ mười lăm, mới bắt đầu viết ra:

 

Thời thượng cổ ở nước ta.

Sử biên như vậy chắc là đúng không?

Đồng ý, Nhà  Sử cất công.

                       Nhặt nhạnh  truyện tích cha ông tục truyền.

 

Có ma quỷ, có thần tiên.

Đem về sắp xếp, phân riêng rồi đà.

Loại đi những tích quá xa

Những chuyện quái đản, yêu ma, quỷ thần…

 

Rồi theo tâm nguyện cá nhân.

Ngô Sĩ Liên, ông viết phần Rồng Tiên!

Sang nhà Thục, phải nói liền

Nước ta hiện vẫn điều, nghiên nhà này.

 

Tới nhà Triệu,  phải nói ngay.

Vẫn chưa nói chắc nhà này với ta!

Thời gian ngần ấy trôi qua

Hai nhà  Thục, Triệu sử đà giữ nguyên.

 

Bỉ nhân theo đó mà biên.

Hết triều Hùng, Sử tiếp liền như sau.

 

Nhà Thục

Email In PDF.

Nhà Thục

 

 

Nguyên nhân để Thục bắt đầu

Văn Lang đất nước, ngày sau suy dài.

Láng giềng Âu Việt, thời này

Đang thời hưng thịnh, đến ngay Giáp Thìn (-257)

 

 

 

Thủ Lĩnh Thục Phán đem binh

Thống nhất hai nước, tự mình lập nên.

Âu Lạc quốc- khó lòng quên!

Thủ lĩnh Thục Phán khi  lên ngôi  là.

 

 

 

Xưng An Dương Vương rồi đà.

Dời đô sang đất mới là Phong Khuê.

Tới năm Bính Ngọ (-255) bước về.

Loa Thành hùng vĩ bốn bề xây lên.

 

 

 

Vì xốy trôn ốc, có tên:

Thành Ốc hay cũng gọi tên Loa Thành.

Ngày nay dấu tích Loa Thành

Hà Nội, huyện Đông Anh nước nhà.

 

 

 

Cùng thời này với nước ta

Khi An Dương Vương lúc mà ở ngai.

Thì bên Tàu có kẻ này:

Tần Doanh Chính, đã thống ngay nước Tàu

 

 

 

Lập đế Tần, xưng hiệu sau:

Tần Thủy Hoàng đế, bên Tàu một tay

Tới Đinh Hợi (-214), đúng năm này.

Thủy Hoàng khi đó lại sai tướng là:

 

 

 

Đồ Thư, cho dụng can qua.

Lấy đất Bách Việt, thế là phía Nam.

An Dương Vương cũng đã hàng.

Tần lấy trọn đất phương nam, rồi đà

 

 

 

Chia đất ấy ra làm ba

Là Nam Hải, Tượng Quận và Quế Lâm.

Đất Tượng Quận thì nhớ rằng

Toàn bộ đất ấy là phần nước ta.

 

 

 

Đất Nam Hải thì nhớ là:

Thuộc Quảng Đông, Quế Lâm là Quảng Tây.

Quân Tần cai cả đất này

Nhưng thời gian trị không dài được lâu.

 

 

 

Bởi vì thủy thổ khác nhau.

Quân Tần khi đó bệnh đau dài dài

Bách Việt thừa thế ra tay

Đánh Đồ Thư lại, tướng này vong thân.

 

 

 

Nhà Tần sau cũng suy dần

Tần  Thủy Hoàng mất, đế Tần lâm chung.

Nảy ra Hán Sở tranh hùng.

Mọi việc từ đó nói chung đổi dời.

 

 

 

Sử ghi nước Tàu bấy giờ.

Có nhiều giặc giã khắp trời bốn phương.

Bấy giờ, ở dưới nam phương.

Trong quận Nam Hải, quan cường có tay:

 

 

 

Nhâm Ngao, dịp ấy tính ngay.

Lấy đất Âu Lạc, nhân đây xưng hùng.

Nhâm Ngao thì sớm lâm chung

Quyền ở Nam Hải cuối cùng về tay

XIN MỜI XEM TIẾP  THỜI KỲ BẮC THUỘC

 
 
BẠN ĐANG XEM TRANG CHỦ KINH DƯƠNG VƯƠNG ĐẾN NHÀ THỤC