Hùng Vương Dựng Nước
Â
Từ đây sử Việt lên ngôi.
Hùng Vương dựng nước đến hồi khai hoa.
Vua Hùng Thứ Nhất nước ta
Trăm con Âu Lạc, ông là trưởng nam.
Â
Tài năng hiệt kiệt, siêu quần.
Ông được cha Lạc Long Quân phong là
Vua Văn Lang, nước Việt ta
Vua Hùng, sau chọn đô là Phong Châu.
Â
Nước Văn Lang thuở ban đầu
Có thảy mười lăm bộ như sau, nối liền:
Văn Lang, Phúc Lộc, Chu Diên
Vũ Ninh, Vũ Định, Dương Tuyền, Tân Hưng
Â
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Cửu Chân
Cửu Đức, Ninh Hải, Bình Văn, Việt Thường.
Lục Hải bộ cuối là tường!
Nước Văn Lang thuở Hùng Vương, nhớ là
Â
Xưa, ở miền Bắc nước ta.
Giáp Tàu, có Bộ tên là Bình Văn.
Bình Văn bộ ấy phải rằng ?
Nay thuộc Trung Quốc, đất phần Hồ Nam.
Â
Trong triều đất nước Văn Lang
Vua chia văn võ xếp hàng hai bên
Tướng Văn thuở ấy có tên:
Lạc Hầu xếp đứng một bên để chầu
Â
Tướng võ có tên gọi sau:
Nhớ rằng Lạc Tướng, đối chầu một bên.
Quan nhỏ thuở ấy, có tên
Là Bồ Chính. Con vua tên gọi này:
Â
Quan Lang dùng chỉ con trai.
Mị Nương chỉ gái, thuở này nước ta
Riêng về chính trị, nước nhà
Cứ theo phụ đạo, con –cha, nối - truyền.
Â
Văn Lang đất nước Rồng Tiên
Các vua Hùng trị nước, truyền ngôi nhau.
Mười tám triều kể từ đầu.
Đến năm Quý Mão coi như sau cùng.
Â
Hồng Bàng họ ấy gom chung.
Kinh Dương Vương, hết triều Hùng, tính ra.
Hai chục triều vua trôi qua.
Khởi Nhâm Tuất, Quý Mão đà dứt đi. (2879-258 TCN)
Â
Thời này lịch sử còn ghi
Một vài truyện tích, giờ thì điểm qua.
Chuyện đầu lịch sử ghi là
Hùng Vương Thứ Nhất, dân ta lưới chày.
Â
Bị Thuồng Luồng hại đêm ngày
Vua Hùng khi đó bắt ngay dân mình.
Dùng chàm vẽ khắp thân mình
Để Thuồng Luồng, Thủy Quái đinh ninh là
Â
Đồng loại chúng giống như ta.
Chúng không hại nữa, thế là từ đây.
Dân ta theo mãi tục này
Rồi truyền cho đến nửa ngay nhà Trần
Â
Anh Tông thấy tục không cần
Cho nên tục ấy sau dần bỏ qua
Ngoài chuyện này, có chuyện là
Ghe, xuồng thêm mắt, quỷ ma không gần!
Â
Thiên Vương Phù Đổng
Chuyện đây can đến giặc Ân
Thiên Vương Phù Đổng, nhiều lần nghe qua!
Hùng Vương Thứ Sáu nước ta.
Giặc Ân xâm phạm nước nhà Văn Lang.
Â
Thế giặc mạnh lại hung tàn.
Quân ta thua trận, nước càng nguy vong.
Vua bảo sứ giả hết lòng.
Tìm người tài giỏi lập công giết thù.
Â
Một hôm sứ giả về tâu.
Gặp một đứa bé yêu cầu như sau :
‘‘Ngựa, roi, giáp sắt rèn mau.
Đem về Phù Đổng thế nào cũng xong !’’
Â
Vua thấy lạ nhưng bằng lòng
Truyền quân rèn gấp, đoạn xong cấp kì.
Đứa bé nhìn thấy một khi.
Vươn vai một cái tức thì lớn cao
Â
Lên ngựa phi tựa tên lao
Miệng hô rền sấm, khí cao ngút trời.
Gióng nhằm giặc đánh tả tơi.
Giặc Ân hô hoán tướng trời xuất quân.
Â
Ba đầu bốn cổ sáu chân.
Hồn kinh vía khiếp tính thần lạc bay.
Roi sắt gãy, Gióng thuận tay
Bụi tre nhổ phắt, đất bay tối trời.
Â
Ngựa phi tới xác giặc phơi
Đến Sóc Sơn, Gióng nhằm trời bay đi
Vua Hùng công nhớ ơn ghi.
Lập đền Phù Đổng, an-kì cho dân.
Â
Sau này, Lý Thái Tổ phong
Thiên Vương Phù Đổng, nhắc lòng đâu dư.
Ai ơi mồng chín tháng tư.
Không đi hội Gióng cũng hư cả đời.
Â
Sơn tinh thủy tinh
Chuyện đây xin được tiếp lời
Kể rằng Sơn-Thủy, muôn đời kình nhau.
Gốc nguồn sự việc như sau
Ở miền Bắc Việt, lũ trào mỗi năm
Â
Người xưa tưởng tượng ra rằng
Sơn, Thủy đại chiến mỗi năm một lần !
Đời Hùng mười tám. Chuyện rằng :
Vua có con gái tuyệt trần Mị Nương.
Â
Vua cha rất mực yêu thương.
Ngài tìm rể quý liệu đường cho con.
Một hôm, hai gã cầu hôn.
Kẻ thì dưới biển, trên non một người.
Â
Tài năng họ động đất trời.
Vua phân vân phán đôi lời ước sau:
"Mai ai đến trước rước dâu.
Riêng về sính lễ, yêu cầu như sau:
Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao...
Cả hai nghe rõ, dập đầu tạ ơn.
Â
Hôm sau mới sáng tinh mơ.
Sơn Tinh mang lễ, đứng chờ báo tin
Vua thuận, rước dâu linh đình.
Thuỷ Tinh đến muộn kêu binh làm càn.
Â
Hô mưa dâng nước biển tràn
Sơn Tinh ứng đánh liên hoàn trước sau
Nước dâng núi lại thêm cao
Hai bên trên dưới đánh nhau liên hồi
Â
Đến khi tàn sức kiệt hơi
Thủy Tinh lại rút, năm trời lại lên
Bỉ nhân gác truyện sang bên
Các chuyện sai đúng hãy nên dặn lòng !
Â
Riêng về câu chuyện Tiên Rồng
Cùng mong dân Việt giống dòng vẻ vang !
Â
Â